Đăng ký bảo hộ Nhãn hiệu là quyền hay nghĩa vụ

LUẬT SƯ

Tư vấn luật thường xuyên cho Doanh nghiệp

Giải quyết tranh chấp nhãn hiệu.

Đăng ký bảo hộ Nhãn hiệu

1. Quy định pháp luật liên quan

i) Tổ chức, cá nhân “có quyền đăng ký nhãn hiệu dùng cho hàng hóa do mình sản xuất hoặc dịch vụ do mình cung cấp.” (Theo Khoản 1 Điều 87 Luật 50).

ii) Nhà nước “công nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân” (Theo Khoản 1 Điều 8 Luật 50).

iii) “Văn bằng bảo hộ ghi nhận chủ sở hữu (…) nhãn hiệu” (Khoản 1 Điều 92 Luật 50).

iv) Quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu phát sinh (xác lập) trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chỉ khi được cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu thì chủ sở hữu nhãn hiệu mới có quyền sở hữu trí tuệ (Theo Điểm a Khoản 3 Điều 6 Luật 50).

2. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu là quyền

Như vậy, theo các quy định được viện dẫn trên, đăng ký bảo hộ nhãn hiệu là quyền chứ không phải là nghĩa vụ của tổ chức cá nhân sử dụng nhãn hiệu; tổ chức, cá nhân có sử dụng nhãn hiệu tự quyết định việc có đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hay không mà pháp luật không bắt buộc phải đăng ký bảo hộ nhãn hiệu.

Nếu tổ chức, cá nhân sử dụng nhãn hiệu chưa được cấp văn bằng bảo hộ thì có quyền sử dụng thực tế nhưng sẽ không có (không được hưởng) quyền sở hữu trí tuệ được nhà nước bảo hộ thông qua thủ tục đăng ký (trừ trường hợp đó là nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ mà không phụ thuộc và việc đăng ký hoặc trường hợp được chấp nhận bảo hộ vì là dấu hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi – đây là hình thức nhà nước công nhận quyền sử dụng thực tế).

3. Sau khi nhãn hiệu đã được cấp văn bằng bảo hộ thì chủ sở hữu nhãn hiệu sẽ có các quyền sở hữu trí tuệ theo quy định tại theo Khoản 1 Điều 123, Khoản 5 Điều 124 và thực hiện quyền tự bảo vệ theo quy định tại  Điều 9, Điều 198 Luật 50.

Xem toàn văn Luật 50 về Sở hữu trí tuệ